Helicobacter pylori (Hp), một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất ở người. Nó là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh, chẳng hạn như loét dạ dày, viêm dạ dày mãn tính, ung thư biểu mô tuyến dạ dày và thậm chí cả ung thư hạch mô bạch huyết liên quan đến niêm mạc (MALT). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc diệt trừ Hp có thể làm giảm nguy cơ ung thư dạ dày, tăng tỷ lệ chữa khỏi các vết loét và hiện nay cần kết hợp với các loại thuốc có thể diệt trừ trực tiếp Hp. Có nhiều lựa chọn điều trị lâm sàng khác nhau: điều trị nhiễm trùng đầu tiên bao gồm liệu pháp ba thuốc tiêu chuẩn, liệu pháp long đờm bốn lần, liệu pháp tuần tự và liệu pháp đồng thời. Năm 2007, Trường Cao đẳng Tiêu hóa Hoa Kỳ đã kết hợp liệu pháp ba thuốc với clarithromycin như liệu pháp đầu tiên để loại trừ những người chưa dùng clarithromycin và không bị dị ứng với penicillin. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, tỷ lệ tiệt trừ bệnh của liệu pháp ba thuốc tiêu chuẩn là 80% ở hầu hết các quốc gia. Tại Canada, tỷ lệ kháng thuốc clarithromycin đã tăng từ 1% năm 1990 lên 11% năm 2003. Trong số những người được điều trị, tỷ lệ kháng thuốc thậm chí còn được báo cáo là vượt quá 60%. Kháng Clarithromycin có thể là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại trong việc diệt trừ. Báo cáo đồng thuận của Maastricht IV ở những vùng có tỷ lệ kháng clarithromycin cao (tỷ lệ kháng trên 15% đến 20%), thay thế liệu pháp 3 thuốc tiêu chuẩn bằng liệu pháp 4 thuốc hoặc điều trị tuần tự bằng thuốc long đờm và/hoặc không có đờm, trong khi liệu pháp Carat 4 thuốc cũng có thể được sử dụng như liệu pháp đầu tiên. - Liệu pháp dòng ở những vùng có khả năng kháng mycin thấp. Ngoài các phương pháp trên, PPI liều cao cộng với amoxicillin hoặc kháng sinh thay thế như rifampicin, furazolidone, levofloxacin cũng được đề xuất như phương pháp điều trị đầu tay thay thế.

Cải thiện liệu pháp ba thuốc tiêu chuẩn

1.1 Liệu pháp 4 người

Khi tỷ lệ diệt trừ của liệu pháp bộ ba tiêu chuẩn giảm xuống, thì liệu pháp bốn thuốc có tỷ lệ diệt trừ cao. Shaikh và cộng sự. đã điều trị cho 175 bệnh nhân bị nhiễm Hp, sử dụng phân tích và ý định theo quy trình (PP). Kết quả phân tích ý định điều trị (ITT) đánh giá tỷ lệ tiệt trừ của liệu pháp bộ ba tiêu chuẩn: PP=66% (49/74, 95% CI: 55-76), ITT=62% (49/79, 95% CI: 51-72); Liệu pháp 4 thuốc có tỷ lệ diệt trừ cao hơn: PP = 91% (102/112, 95% CI: 84-95), ITT = 84%: (102/121, 95% CI: 77 ~ 90). Mặc dù tỷ lệ diệt trừ Hp thành công giảm đi sau mỗi lần điều trị thất bại, nhưng liệu pháp bốn thuốc bằng cồn đã chứng tỏ tỷ lệ diệt trừ Hp cao (95%) như một phương thuốc sau thất bại của liệu pháp ba thuốc tiêu chuẩn. Một nghiên cứu khác cũng đưa ra kết luận tương tự: sau thất bại của liệu pháp ba thuốc tiêu chuẩn và liệu pháp ba thuốc levofloxacin, tỷ lệ điều trị khỏi bệnh của liệu pháp bốn thuốc bari lần lượt là 67% và 65% đối với những người bị dị ứng với penicillin hoặc đã dùng liều lớn ở những bệnh nhân bị dị ứng. kháng sinh lacton tuần hoàn, liệu pháp long đờm bộ 4 cũng được ưa chuộng hơn. Tất nhiên, việc sử dụng liệu pháp bốn thuốc cồn có nguy cơ xảy ra các tác dụng phụ cao hơn, chẳng hạn như buồn nôn, tiêu chảy, đau bụng, đại tiện phân đen, chóng mặt, nhức đầu, vị kim loại, v.v., nhưng vì thuốc long đờm được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc nên nó được sử dụng rộng rãi. tương đối dễ dàng thu được và có tỷ lệ diệt trừ cao hơn có thể được sử dụng như một phương pháp điều trị khắc phục. Đó là giá trị quảng bá trong phòng khám.

1.2 SQT

SQT được điều trị bằng PPI + amoxicillin trong 5 ngày, sau đó điều trị bằng PPI + clarithromycin + metronidazole trong 5 ngày. SQT hiện được khuyến cáo là liệu pháp điều trị đầu tay diệt trừ Hp. Một phân tích tổng hợp sáu thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (RCT) ở Hàn Quốc dựa trên SQT là 79,4% (ITT) và 86,4% (PP), và tỷ lệ loại trừ SQT bằng HQ cao hơn so với liệu pháp ba thuốc tiêu chuẩn, KTC 95%: 1,403 ~ 2.209), cơ chế có thể là 5d (hoặc 7d) đầu tiên sử dụng amoxicillin để phá hủy kênh clarithromycin chảy ra trên thành tế bào, khiến tác dụng của clarithromycin hiệu quả hơn. SQT thường được sử dụng như một biện pháp khắc phục sự thất bại của liệu pháp ba thuốc tiêu chuẩn ở nước ngoài. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ diệt trừ của liệu pháp bộ ba (82,8%) trong thời gian kéo dài (14 ngày) cao hơn so với liệu pháp tuần tự cổ điển (76,5%). Một nghiên cứu cũng cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ diệt trừ Hp giữa SQT và liệu pháp ba thuốc tiêu chuẩn, điều này có thể liên quan đến tỷ lệ kháng clarithromycin cao hơn. SQT có thời gian điều trị dài hơn, có thể làm giảm sự tuân thủ của bệnh nhân và không phù hợp với những vùng có khả năng kháng clarithromycin cao, vì vậy SQT có thể được cân nhắc khi có chống chỉ định sử dụng cồn thuốc.

1.3 Liệu pháp đồng hành

Điều trị kèm theo là PPI kết hợp với amoxicillin, metronidazole và clarithromycin. Một phân tích tổng hợp cho thấy tỷ lệ diệt trừ cao hơn so với liệu pháp ba thuốc tiêu chuẩn. Một phân tích tổng hợp khác cũng cho thấy tỷ lệ tiệt trừ (90%) cao hơn đáng kể so với liệu pháp ba thuốc tiêu chuẩn (78%). Đồng thuận Maastricht IV gợi ý rằng SQT hoặc liệu pháp đồng thời có thể được sử dụng trong trường hợp không dùng thuốc long đờm và tỷ lệ diệt trừ của hai liệu pháp này là tương tự nhau. Tuy nhiên, ở những vùng mà clarithromycin kháng metronidazole, điều trị đồng thời sẽ có lợi hơn. Tuy nhiên, do liệu pháp điều trị kèm theo bao gồm ba loại kháng sinh nên việc lựa chọn kháng sinh sẽ giảm đi sau khi điều trị thất bại, do đó không nên khuyến khích sử dụng phương pháp điều trị đầu tiên ngoại trừ những vùng kháng clarithromycin và metronidazole. Chủ yếu được sử dụng ở những vùng có sức đề kháng thấp với clarithromycin và metronidazole.

1.4 Liệu pháp liều cao

Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng việc tăng liều và/hoặc tần suất sử dụng PPI và amoxicillin là hơn 90%. Tác dụng diệt khuẩn của amoxicillin đối với Hp được coi là phụ thuộc vào thời gian và do đó, việc tăng tần suất dùng thuốc sẽ hiệu quả hơn. Thứ hai, khi độ pH trong dạ dày được duy trì trong khoảng từ 3 đến 6, sự nhân lên có thể bị ức chế một cách hiệu quả. Khi độ pH trong dạ dày vượt quá 6, Hp sẽ không còn nhân lên nữa và nhạy cảm với amoxicillin. Ren và cộng sự đã tiến hành thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng ở 117 bệnh nhân có bệnh nhân dương tính với Hp. Nhóm dùng liều cao được dùng amoxicillin 1g, tid và rabeprazole 20mg, hai lần, và nhóm đối chứng được dùng amoxicillin 1g, tid và rabeprazole. 10mg, bid, sau 2 tuần điều trị, tỷ lệ diệt trừ Hp của nhóm liều cao là 89,8% (ITT), 93,0% (PP), cao hơn rõ rệt so với nhóm đối chứng: 75,9% (ITT), 80,0% (PP), P <0,05. Một nghiên cứu ở Mỹ cho thấy dùng esomeprazole 40 mg, ld + amoxicillin 750 mg, 3 ngày, ITT = 72,2% sau 14 ngày điều trị, PP = 74,2%. Franceschi và cộng sự. phân tích hồi cứu ba phương pháp điều trị: 1 liệu pháp ba tiêu chuẩn: lansoola 30mg, bid, clarithromycin 500mg, bid, amoxicillin 1000mg, bid, 7d; 2 liệu pháp liều cao: Lansuo Carbazole 30mg, bid, clarithromycin 500mg, bid, amoxicillin 1000mg, tid, quá trình điều trị là 7 ngày; 3SQT: lansoprazole 30mg, bid + amoxicillin 1000mg, điều trị giá thầu trong 5 ngày, lansoprazole 30mg giá thầu, carat Giá thầu 500mg và giá thầu tinidazole 500mg được điều trị trong 5 ngày. Tỷ lệ diệt trừ của 3 phác đồ điều trị là: 55%, 75% và 73%. Sự khác biệt giữa liệu pháp liều cao và liệu pháp ba thuốc tiêu chuẩn có ý nghĩa thống kê và sự khác biệt được so sánh với SQT. Không có ý nghĩa thống kê. Tất nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng liệu pháp omeprazole và amoxicillin liều cao không cải thiện hiệu quả tỷ lệ tiệt trừ bệnh, có thể là do kiểu gen CYP2C19. Hầu hết các PPI được chuyển hóa bởi enzyme CYP2C19, do đó cường độ của chất chuyển hóa gen CYP2C19 có thể ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa của PPI. Esomeprazole được chuyển hóa chủ yếu bởi enzyme cytochrome P450 3 A4, có thể làm giảm ảnh hưởng của gen CYP2C19 ở một mức độ nào đó. Ngoài ra, ngoài PPI, amoxicillin, rifampicin, furazolidone, levofloxacin cũng được khuyến cáo là phương pháp điều trị thay thế liều cao.

Chế phẩm vi sinh tổng hợp

Việc bổ sung các tác nhân sinh thái vi sinh vật (MEA) vào liệu pháp tiêu chuẩn có thể làm giảm các phản ứng bất lợi, nhưng vẫn còn tranh cãi liệu liệu tỷ lệ diệt trừ Hp có thể tăng lên hay không. Một phân tích tổng hợp cho thấy rằng liệu pháp ba thuốc B. sphaeroides kết hợp với liệu pháp ba thuốc đơn thuần đã làm tăng tỷ lệ diệt trừ Hp (4 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, n=915, RR=1,13, KTC 95%: 1,05) ~1,21), cũng làm giảm phản ứng bất lợi bao gồm tiêu chảy. Zhao Baomin và cộng sự. cũng cho thấy, việc kết hợp probiotic có thể cải thiện đáng kể tỷ lệ diệt trừ bệnh, thậm chí sau khi rút ngắn thời gian điều trị vẫn có tỷ lệ diệt trừ cao. Một nghiên cứu trên 85 bệnh nhân có bệnh nhân dương tính với Hp được chia ngẫu nhiên thành 4 nhóm Lactobacillus 20 mg ngày 2 lần, clarithromycin 500 mg ngày 2 lần và tinidazole 500 mg ngày 2 lần. , B. cerevisiae, Lactobacillus kết hợp với bifidobacteria, giả dược trong 1 tuần, điền vào bảng câu hỏi nghiên cứu triệu chứng hàng tuần trong 4 tuần, 5 đến 7 tuần sau để kiểm tra tình trạng nhiễm trùng, nghiên cứu cho thấy: nhóm dùng men vi sinh và sự thoải mái Không có sự khác biệt đáng kể sự khác biệt về tỷ lệ diệt trừ giữa các nhóm, nhưng tất cả các nhóm sử dụng probiotic đều có lợi thế hơn trong việc ngăn ngừa các phản ứng bất lợi so với nhóm đối chứng và không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ phản ứng bất lợi giữa các nhóm sử dụng probiotic. Cơ chế mà probiotic tiêu diệt Hp vẫn chưa rõ ràng và có thể ức chế hoặc làm bất hoạt các vị trí bám dính cạnh tranh và các chất khác nhau như axit hữu cơ và bacteriopeptide. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng sự kết hợp của men vi sinh không cải thiện tỷ lệ diệt trừ vi khuẩn, điều này có thể liên quan đến tác dụng bổ sung của men vi sinh chỉ khi kháng sinh tương đối không hiệu quả. Vẫn còn một không gian nghiên cứu lớn về chế phẩm sinh học dùng chung và cần nghiên cứu thêm về các loại, liệu trình điều trị, chỉ định và thời gian chuẩn bị chế phẩm sinh học.

Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ diệt trừ Hp

Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc diệt trừ Hp bao gồm tình trạng kháng kháng sinh, vùng địa lý, tuổi bệnh nhân, tình trạng hút thuốc, sự tuân thủ điều trị, thời gian điều trị, mật độ vi khuẩn, viêm dạ dày teo mãn tính, nồng độ axit dạ dày, phản ứng của từng cá nhân với PPI và tính đa hình gen CYP2C19. Sự hiện diện. Các nghiên cứu đã báo cáo rằng trong phân tích đơn biến, tuổi tác, khu dân cư, thuốc men, bệnh đường tiêu hóa, bệnh đi kèm, tiền sử tiệt trừ, PPI, liệu trình điều trị và tuân thủ điều trị có liên quan đến tỷ lệ tiệt trừ. Ngoài ra, một số bệnh mãn tính tiềm ẩn như tiểu đường, cao huyết áp, bệnh thận mãn tính, bệnh gan mãn tính, bệnh phổi mãn tính cũng có thể liên quan đến tỷ lệ diệt trừ Hp. Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu hiện tại không giống nhau và cần có những nghiên cứu quy mô lớn hơn nữa.


Thời gian đăng: 18-07-2019